THAM LUẬN
THÀNH CÁT TƯ HẢNCON SƯ TỬ CỦA VÙNG THẢO NGUYÊN THẾ KỸ  XII-XIII  :
HUY THANH
1-TIỂU SỬ, CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP THÀNH CÁT TƯ HẢN ( Lược trích từ Bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia ) :  
 1.1- TIỂU SỬ :
Thành Cát Tư Hãn ( tiếng Trung: 成吉思汗 ) tên gọi Thiết Mộc Chân  sinh  năm 1162, mất năm 1227, là người lập ra Đế quốc Mông Cổ  sau khi hợp  nhất các bộ lạc độc lập ở vùng đông bắc châu Á vào năm 1206 .Ông được  người Mông Cổ coi như là một vị lãnh đạo  mang lại sự ổn định về chính  trị, kinh tế cho khu vực Á-Âu .Cháu nội của ông  sau này,là Hốt Tất Liệt  đã thiết lập ra triều đại nhà Nguyên của Trung Hoa. .Nhiều nhân vật nổi  tiếng là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn,,những kẻ đi xâm chiếm nhiều đất  đai về tay mình như Timur Lenk, kẻ chinh phục dân Thổ Nhĩ Kỳ, Babur,  người sáng lập ra đế quốc Mogul trong lịch sử Ấn Độ
Thời thơ ấu của Thiết Mộc Chân rất nghèo khồ., khi ông lên 9 tuổi, cha ông đã đưa ông đến gia đình vợ tương lai là Bột Nhi Thiếp. Ông phải sống ở đó cho đến khi đủ tuổi lấy vợ là 12 tuổi.Sau đó cha ông bị đầu độc bởi bộ lạc Tháp Tháp Nhi  trên đường trở về nhà ,Thiết Mộc Chân  sau đó đã trở thành thủ lĩnh của bộ lạc mình Trong những năm sau đó, ông  và gia đình sống một cuộc đời du cư nghèo  khó, sống được là nhờ các loài động vật gặm nhấm Trong một lần đi săn  bắn như vậy ông đã giết chết người anh/em cùng cha khác mẹ là Bekhter  trong một cuộc tranh giành chiến lợi phẩm, năm 1182, ông đã bị những  người cùng bộ lạc cũ bắt trong một cuộc tập kích và bị giam cầm với gông  trên cổ. Sau đó ông trốn thoát với sự trợ giúp của những người coi ngục  có cảm tình. Mẹ ông đã dạy ông nhiều bài học sống sót trong những điều  kiện thời tiết khắc nghiệt của Mông Cổ tới sự cần thiết của liên minh với những bộ tộc  khác
  1.2 CUỘC ĐỞI SỰ NGHIỆP : 
Năm 16 tuổi, Thiết Mộc Chân lấy Bột Nhi Thiếp của bộ tộc Hoằng Cát Lạt , sau này bà là Quang Hiến hoàng hậu, Sau đó  vợ ông bị bắt cóc trong một cuộc tập kích của bộ tộc Miệt Nhi Khất và  ông đã nhờ bạn (sau này là kẻ thù) là Trát Mộc Hợp và người cha đỡ đầu  của ông là Thoát Lý  của bộ tộc Khắc Liệt  để giải thoát cho vợ mình. Đứa con đầu lòng là Truật Xích sinh quá sớm  đã dẫn đến sự nghi ngờ của ông và Truật Xích  (cũng như hậu duệ của ông  ta ) không bao giờ được coi là những người kế vị.Ngoài ra  Bột Nhi Thiếp  còn sinh ra ba người con trai khác là Sát Hợp Đài , Oa Khoát Đài, Đà  Lôi. Ông còn có nhiều con trai với các bà vợ khác nhưng họ không được  liệt kê vào hàng kế vị, còn các con gái thì gần như không có 
1.3-THỐNG NHẤT CÁC BỘ TỘC  :
Vùng cao nguyên Trung Á (miền bắc và tây bắc Trung  Quốc, vào khoảng thời gian của Thiết Mộc Chân (cuối thế kỷ 12, đầu thế  kỷ 13) được phân chia giữa một vài bộ lạc hay liên minh, trong số đó có Nãi Man , Miệt Nhi Khất, Duy Ngô Nhĩ, Đảng Hạng , Tatar, Mông Cổ, thường có xung đột với nhau như những cuộc đột kích, cướp bóc, trả thù .
  A-TIÊU DIỆT VÀ THỐNG NHẤT CÁC BỘ TỘC
Thiết Mộc Chân bắt đầu sự nghiệp của mình bằng cách liên kết với bạn của cha mình là Thoát Lý   còn gọi là Thoát Oát Lân, một thủ lĩnh ở địa phương (có nguồn cho rằng  ông là chư hầu cho Hãn vương này) được nhà Kim phong tước Hãn vương năm  1197. Mối quan hệ này ban đầu được tăng cường khi Bột Nhi Thiếp bị người  Miệt Nhi Khất bắt (khoảng năm 1177 hay 1180 trước khi sinh ra Truật  Xích) và Thiết Mộc Chân phải cần tới sự hỗ trợ của Thoát Lý. Đáp lại,  Thoát Lý cho ông mượn 20.000 chiến binh Khắc Liệt của ông này và đề nghị  ông mời cả người bạn thời thơ ấu là Trát Mộc Hợp, khi đó đang là hãn  của bộ lạc Trát Đạt Lan. Mặc dù chiến dịch  này thành công trong việc giải cứu Bột Nhi Thiếp và thất bại hoàn toàn  của người Miệt Nhi Khất, nhưng nó cũng dọn đường cho sự chia rẽ giữa hai  người bạn thời thơ ấu là Thiết Mộc Chân và Trát Mộc Hợp.
Các kẻ thù chính của liên minh Mông Cổ vào khoảng năm 1190-1200 là Nãi Man ở phía tây, Miệt Nhi Khất ở phía bắc, Đảng Hạng ở phía nam và Kim cùng người Tatar ở phía đông. Vào năm 1190, Thiết Mộc  Chân cùng những người theo ông chỉ thống nhất được một lượng nhỏ người  Mông Cổ. Trong các bộ lạc chiếm được, ông thực hiện việc cai trị theo  cung cách khác với truyền thống của người Mông Cổ bằng cách ủy quyền cho  những người xứng đáng và trung thành chứ không dựa trên quan hệ gia  đình. Thiết Mộc Chân sau đó đã ban hành bộ luật bằng văn bản cho người  Mông Cổ, gọi là Yassa, và ông ra lệnh phải  tuân thủ bộ luật này một cách nghiêm ngặt để xây dựng tổ chức và quyền  lực trong phạm vi vương quốc của mình.. Như là sự khuyến khích cho việc  phục tùng tuyệt đối và tuân thủ các quy tắc trong luật pháp của ông, bộ  luật Yassa, Thiết Mộc Chân cam kết dành cho  thần dân và binh lính sự giàu có từ các chiến lợi phẩm thu được trong  tương lai. Khi đánh bại các bộ lạc thù địch, ông không ruồng bỏ binh  lính của họ mà đặt các bộ lạc đó dưới sự bảo hộ của mình và hợp nhất các  thành viên của các bộ lạc đó vào bộ lạc của mình. Mẹ ông còn nhận những  đứa trẻ mồ côi từ các bộ lạc đó để nuôi. Những điểm mới trong chính  sách của ông đã gây dựng được niềm tin và lòng trung thành từ những  người bị chế ngự, làm cho Thiết Mộc Chân trở thành mạnh hơn sau mỗi  chiến thắng.
Năm 1201, một kurultai do Hợp Đáp Cân cùng 11 bộ lạc khác tổ chức đã bầu Trát Mộc Hợp làm cổ nhi hãn , một  tước hiệu được những người trị vì hãn quốc Cáp Lạt Khiết Đan dùng, để  liên binh tấn công Thiết Mộc Chân. Liên minh này bị liên minh giữa Thiết  Mộc Chân với Thoát Lý đánh bại, Trát Mộc Hợp phải chạy sang hàng Thoát  Lý.
Con trai của Thoát Lý là Tang Côn ghen tức với sức mạnh đang lên của Thiết Mộc Chân và sự thân mật của  ông với cha mình. Ông này lập kế hoạch ám sát Thiết Mộc Chân. Thoát Lý,  được cho là đã được Thiết Mộc Chân cứu mạng nhiều lần, lại ủng hộ con  mình và không hợp tác với Thiết Mộc Chân. Thiết Mộc Chân biết được ý đồ  của Tang Côn và cuối cùng đã đánh bại Tang Côn cùng những người trung  thành với ông này. Một trong những giọt nước cuối cùng làm đoạn tuyệt  quan hệ giữa Thiết Mộc Chân và Thoát Lý là sự từ chối của Thoát Lý năm  1202 khi Thiết Mộc Chân đề nghị cưới con gái ông ta cho Truật Xích, con  trai trưởng của ông, một dấu hiệu không tôn trọng trong văn hóa Mông Cổ.  Hành động này dẫn tới sự chia cắt hai bên và là điềm báo một cuộc chiến  tranh sẽ nổ ra. Thoát Lý liên minh với Trát Mộc Hợp, người khi đó đã  chống lại Thiết Mộc Chân; tuy nhiên mâu thuẫn bên trong giữa Thoát Lý  với Trát Mộc Hợp, cộng với sự chuyển hướng của một loạt các cựu liên  minh sang phía Thiết Mộc Chân đã dẫn tới thất bại của Thoát Lý. Ông này  chạy tới chỗ của Thái Dương Hãn, thủ lĩnh  bộ lạc Nãi Man, nhưng bị binh lính Nãi Man giết chết năm 1203. Thất bại  này đã làm cho bộ lạc Khắc Liệt bị phân rã hoàn toàn.
Mối đe dọa trực tiếp kế tiếp đối với Thiết Mộc Chân là người Nãi Man,  với Trát Mộc Hợp và những người theo ông này đã chạy tới đó tìm nơi  nương tựa. Người Nãi Man đã không đầu hàng, mặc dù một bộ phận đã tình  nguyện đứng về phía Thiết Mộc Chân. Trước khi Thiết Mộc Chân tấn công  người Nãi Man và Trát Mộc Hợp thì thì một số tướng lĩnh của ông này đã  chạy sang phía Thiết Mộc Chân, trong đó đáng chú ý có Tốc Bất Đài, sau  trở thành một trong tứ khuyển nổi danh của  ông. Sau một vài trận chiến, Thiết Mộc Chân đã đánh bại Thái Dương Hãn  vào cuối năm 1204 và Trát Mộc Hợp bị binh lính bắt trao cho Thiết Mộc  Chân.
Theo Bí sử Mông Cổ, Thiết Mộc Chân một lần nữa  mong muốn duy trì quan hệ bạn bè với Trát Mộc Hợp và đề nghị ông này  đứng về phía mình. Ông đã giết những kẻ bán đứng Trát Mộc Hợp vì không  mong muốn có những kẻ phản trắc trong hàng ngũ. Tuy nhiên, Trát Mộc Hợp  đã từ chối, nói rằng bầu trời chỉ có một mặt trời mà thôi và đề nghị  được chết bằng một cái chết cao quý theo tập quán là chết không rơi máu  và được đáp ứng.
Phần còn lại của bộ lạc Miệt Nhi Khất đứng về phía người Nãi Man bị Tốc Bất Đài đánh bại. Thất bại của người  Nãi Man đã làm cho Thiết Mộc Chân trở thành vị chúa tể duy nhất của bình  nguyên Mông Cổ, nghĩa là tất cả các liên minh hùng mạnh khác hoặc là  thất bại hoặc là bị hợp nhất dưới trướng của ông.
Với nhu cầu phải bảo vệ biên giới từ các quốc gia phía  nam như đế quốc Kim và Tây Hạ là những quốc gia trên địa bàn Trung Quốc  ngày nay, ông đã tổ chức hệ thống của mình với sự tăng cường sức mạnh  quân sự và đã không bị những người Trung Quốc, khi đó bắt đầu cảm thấy  khó chịu với quốc gia mới nổi Mông Cổ dưới thời đại của Thiết Mộc Chân,  đánh giá quá mức. Cuối cùng họ đã có những hành động như ngăn cản việc  tiếp tế lương thực, thực phẩm đi qua Mông Cổ ngày nay. Với những phẩm  chất cá nhân và ý chí mạnh mẽ, Thiết Mộc Chân cuối cùng đã thống nhất  được các bộ lạc trong một hệ thống duy nhất, một nét đặc trưng vĩ đại  của Mông Cổ, là đất nước có lịch sử lâu đời của những cảnh huynh đệ  tương tàn và gian khó về kinh tế.
Năm 1206 Thiết Mộc Chân đã liên kết thành công các bộ lạc Mông Cổ đang bị chia rẽ và tại hội nghị Kurultai (hội đồng các thủ lĩnh Mông Cổ) ông đã được phong là Thành Cát Tư Hãn (trong tiếng Mông Cổ có nghĩa là vua của cả thế giới).
   B-THÀNH LẬP ĐẾ CHẾ MÔNG CỔ : Cùng thời điểm với hội nghị Kuriltai, Thành Cát Tư Hãn  đã bị lôi cuốn vào cuộc tranh chấp với Tây Hạ là quốc gia bắt người  Mông Cổ phải phục tùng và nộp cống phẩm hàng năm. Ông đã chiếm được một  số thành trì được bảo vệ vững chắc của Tây Hạ. Năm 1209 khi hòa bình với  Tây Hạ được ký kết, về thực chất ông đã thu phục được Tây Hạ, đã được  vua Tây Hạ là Lý An Toàn thừa nhận là chúa tể, biến quốc gia này trở  thành chư hầu chịu cống nộp cho người Mông Cổ và cung cấp binh lính cũng  như hậu cần cho các chiến dịch trong tương lai của ông. Sau đó Tây Hạ  cũng bị ông lật đổ (1227).
Mục đích chính của ông là xâm chiếm nhà Kim vừa để trả  thù những thất bại trước đây khi những người Mông Cổ còn thù hận lẫn  nhau và giành lấy tài sản cùng sự giàu có của miền bắc Trung Quốc. Ông  tuyên bố chiến tranh năm 1211, để cho nhà Kim không thể còn là sự đe dọa  thường xuyên đối với Mông Cổ về lãnh thổ, tài sản ở phần biên giới phía  nam. Mô hình của cuộc chiến tranh chống lại nhà Kim của người Nữ Chân  cũng giống như cuộc chiến chống lại Tây Hạ.
Kết quả của chiến thuật siêu đẳng và sự hoàn hảo của  chiến lược là Thành Cát Tư Hãn đã xâm chiếm và hợp nhất phần lãnh thổ  nhà Kim đến tận Vạn lý trường thành của Trung Quốc năm 1213. Cũng năm đó  hoàng đế nhà Kim là Hoàn Nhan Vĩnh Tế bị  tướng Hồ Sa Hổ giết trong cuộc bạo loạn. Cháu của Hoàn Nhan Vĩnh Tế là  Hoàn Nhan Tuần lên ngôi. Sau đó Thành Cát Tư Hãn chỉ huy ba cánh quân  tiến vào phần trung tâm lãnh thổ Kim, nằm giữa Vạn lý trường thành và  sông Hoàng Hà. Giống như các vị vua khác tin mình là thiên tử,  ông đã xâm chiếm phần miền bắc Trung Quốc, chiếm giữ hàng loạt thành phố  và năm 1215 đã bao vây, chiếm giữ và cướp bóc kinh thành của nhà Kim là  Yên Kinh (sau này là Bắc Kinh). Tuy vậy nhưng vua nhà Kim là Hoàn Nhan  Tuần (完顏珣) tức vua Kim Tuyên Tông (宣宗) đã không đầu hàng mà chuyển kinh  thành về Khai Phong (開封) vì sự lớn mạnh của người Mông Cổ ở phía bắc. Ở  đó những vị vua cuối cùng của nhà Kim là Hoàn Nhan Thừa Lân (完顏承麟) hay  Kim Mạt Đế (末帝) đã bị đánh bại vào năm 1235.
  C -MỠ RỘNG BỜ CỎI MIỀN TÂY Á :Cùng thời gian đó Khuất Xuất Luật, vị hãn bị phế truất của bộ tộc Nãi Man đã chạy về phía tây và cướp hãn quốc Tây Liêu, (đồng minh phía tây của  Thành Cát Tư Hãn). Trong thời gian này, quân đội Mông Cổ đã mệt mỏi do  hơn 10 năm chiến tranh chống lại Tây Hạ và Kim. Vì vậy Thành Cát Tư Hãn  chỉ gửi khoảng 20.000 quân dưới sự chỉ huy của viên tướng trẻ Triết Biệt  (者別 ) để chống lại Khuất Xuất Luật. Một cuộc nổi dậy trong  nước với sự giúp đỡ của người Mông Cổ và sau đó Triết Biệt tràn qua đất  nước này. Lực lượng của Khuất Xuất Luật đã bị đánh bại ở phía tây của  Kashgar; ông ta bị bắt sống và bị hành hình sau đó, Tây Liêu bị sáp nhập  vào Mông Cổ. Năm 1218 vương quốc Mông Cổ mở rộng về phía tây tới hồ Balkhas và tiếp giáp với đế quốc Khwarezm (dịch theo tiếng Trung là Hoa Lạt Tử Mô), một quốc gia Hồi giáo trải dài từ biển Caspi ở phía tây và vịnh Ba Tư, biển Ả Rập ở phía nam.
Năm 1218 Thành Cát Tư Hãn gửi một đoàn sứ giả sang  tỉnh phía đông của đế quố Khwarezm với mục đích thảo luận khả năng buôn  bán với quốc gia này. Thống đốc của tỉnh này đã giết chết họ và làm  Thành Cát Tư Hãn giận dữ. Ông đã cho 200.000 quân tràn sang để trả thù.  Quân đội Mông Cổ với chiến lược và chiến thuật hơn hẳn đã nhanh chóng hạ  thành phố này và hành hình viên thống đốc bằng cách đổ bạc nóng chảy  vào tai và mắt ông ta để trả đũa hành động xúc phạm tới Thành Cát Tư Hãn  và những ý định tốt đẹp ban đầu của người Mông Cổ.
Cùng thời điểm này (1219) ông quyết định mở rộng ảnh  hưởng của Mông Cổ đối với thế giới Hồi giáo. Quân đội Mông Cổ lần lượt  hạ các thành phố chính của Khwarezm như Bukhara, Samarkand và Balkh,  và hoàng đế Khwarezm là Ala ad-Din Muhammad II đã phải chuẩn bị lực  lượng chống lại họ. Tuy nhiên, ông ta đã bị vượt qua bởi những người  Mông Cổ nhanh nhẹn và lắm mưu kế hơn và phải liên tục rút lui. Cuối  cùng, Ala ad-Din Muhammad II đã tìm cách đến ẩn náu ở Khorasan, nhưng bị viêm màng phổi chết ở một hòn đảo trên biển Caspi, gần cảng Abaskun năm 1220, và đế quốc Khwarezm sụp đổ.
Sau đó quân đội Mông Cổ chia làm hai đạo quân, Thành  Cát Tư Hãn chỉ huy một nhánh tràn vào Afghanistan và bắc Ấn Độ, nhánh  kia do tướng Tốc Bất Đài chỉ huy tiến vào Kavkaz và Nga. Không một cánh  quân nào bổ sung thêm lãnh thổ cho đế chế nhưng họ đã cướp bóc và đánh  bại mọi đội quân mà họ gặp. Năm 1225 cả hai cánh quân đều quay trở lại  Mông Cổ.
Những cuộc xâm lăng này đã bổ sung thêm Transoxiana và Ba Tư vào đế chế vốn đã ghê gớm và xác lập hình ảnh của Thành Cát Tư  Hãn như một chiến binh khát máu trong những người không biết hoặc không  muốn biết rằng ông là ông chủ thực sự của thế giới.
  D-MỞ RỘNG BỜ CỎI VỀ PHIÁ ÂU CHÂU CHIẾM NƯỚC NGA Sau khi tiêu diệt Đế quốc Khwarezmian vào năm 1220,  Thành Cát Tư Hãn tập hợp lực lượng của ông ở Ba Tư và Armenia để trở về  thảo nguyên Mông Cổ. Theo đề nghị của Tốc Bất Đài, quân đội Mông Cổ được  chia thành hai cánh. Thành Cát Tư Hãn dẫn phần lớn quân chủ lực về Mông  Cổ bằng cách tấn công xuyên qua Afghanistan và bắc Ấn Độ. Cánh còn lại  gồm 2 vạn quân (tức 2 tümen, vạn hộ), do Triết Biệt và Tốc Bất Đài chỉ  huy, hành quân qua vùng Kavkaz và vào Nga, tấn công sâu vào Armenia và  Azerbaijan. Người Mông Cổ phá hủy Gruzia, chiếm được trung tâm thương  mại và quân sự Caffa ở Krym của Cộng hòa Genova, và tiến sát biển Đen. Ảnh hưởng của vó ngựa Mông Cổ được mở rộng hơn bao giờ hết.
Trên đường trở về Mông Cổ, cánh quân Tốc Bất Đài bị liên quân Cuman-Kipchak và lực lượng lớn quân Nga Kiev lên tới 8 vạn, tập hợp từ quân đội của các vương công Nga, do Mstislav Dũng cảm của Halych và Mstislav III của Kiev chỉ huy, chặn lại. Tốc Bất Đài gửi sứ giả đến đề nghị hòa bình  nhưng các sứ giả bị hành quyết. Nổi giận vì bị từ chối, Tốc Bất Đài ra  lệnh tấn công vào đội quân Nga Kiev, tuy đông nhưng kém phối hợp bởi sự thiếu đoàn kết của các vương công Nga, và đã đánh tan đội quân này tại trận sông Kalka năm 1223. Quân Mông Cổ tiếp tục càn quét lãnh thổ Nga và chỉ chịu dừng  lại sau trận eo sông Samara, khi bị quân Volga Bulgar, do Ghabdulla  Chelbir chỉ huy, phục kích gây thiệt hại nặng nề.
Các vương công Nga không còn cách nào khác ngoài lời  đề nghị cầu hòa, mà thực chất là lời đầu hàng nhục nhã. Tuy họ không bị  tước đi quyền lực, nhưng họ phải chịu thần phục và triều cống cho Thành  Cát Tư Hãn. Tương truyền, để dương uy quân Mông Cổ, Tốc Bất Đài đã cho  đặt ván trên đầu các vương công Nga để mở tiệc ăn mừng. Sáu vương công  Nga, trong đó có Mstislav III của Kiev, đã bị đè đến chết.
Thành Cát Tư Hãn không phải là người chấp nhận thất  bại. Trước khi 2 cánh quân về Mông Cổ năm 1225, họ đã trinh sát và tìm  hiểu kỹ đối phương để chuẩn bị phục thù. Dù Thành Cát Tư Hãn chết 2 năm  sau đó, quân Mông Cổ cũng một lần nữa trở lại vào năm 1237 dưới sự chỉ  huy của Bạt Đô, chinh phục hoàn toàn lãnh thổ Nga Kiev và Volga Bulgar  vào năm 1240, trả lại mối thù bại trận lần trước.
  E-TIÊU DIỆT TÂY HẠ
Đế chế chư hầu Tây Hạ đã từ chối không tham chiến chống lại đế chế Kharezm,  và Thành Cát Tư Hãn đã thề dành cho họ sự trừng phạt. Trong khi ông  đang ở Iran, Tây Hạ và Kim đã hình thành liên minh chống lại người Mông  Cổ. Sau một thời gian nghỉ ngơi để chỉnh đốn quân đội, Thành Cát Tư Hãn  chuẩn bị chiến tranh chống lại liên minh này.
Cùng thời gian này, ông cũng phải suy nghĩ về việc  chọn người kế nghiệp để xóa bỏ những cuộc tranh giành liên miên giữa các  con; ông đã chọn người con trai thứ ba là Oa Khoát Đài  làm người kế  nghiệp cũng như thiết lập cơ chế lựa chọn những người kế nghiệp trong  tương lai với điều kiện họ phải là hậu duệ của ông. Ông đã nhận được  những báo cáo tình báo về lực lượng Tây Hạ, Kim và chuẩn bị lực lượng  180.000 quân cho các chiến dịch mới.
Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn tấn công Tây Hạ với cớ là  Tây Hạ chứa chấp kẻ thù của Mông Cổ và để trừng phạt sự phản bội của họ.  Tháng 2, ông chiếm các thành phố Hắc Thủy, Cam Châu (甘州) và Túc Châu  (肃州) và trong mùa thu năm đó ông chiếm phủ Tây Lương. Các tướng Tây Hạ  đã đánh một trận lớn với quân Mông Cổ gần dãy núi Hạ Lan Sơn (贺兰山). Quân Tây Hạ đại bại. Tháng 11, ông bao vây thành Linh Châu (灵州)  và vượt qua sông Hoàng Hà đánh bại quân cứu viện của Tây Hạ.
Năm 1227, ông tấn công kinh đô Tây Hạ, trong tháng 2  chiếm phủ Lâm Thao, tháng 3 chiếm quận Tây Ninh (tỉnh Thanh Hải ngày  nay) và phủ Tín Đô (信都府). Trong tháng 4 chiếm quận Đức Thuận. Tại Đức  Thuận, tướng Tây Hạ Mã Kiên Long chống lại  quân Mông Cổ trong nhiều ngày cả trong và ngoài thành. Mã Kiên Long sau  đó chết do bị tên bắn. Thành Cát Tư Hãn sau khi chiếm Đức Thuận, tiến  quân tới Lục Bàn Sơn (thuộc huyện Thanh Thủy (清水), tỉnh Cam Túc) để tránh mùa hè khắc nghiệt.
Vua Tây Hạ mới, đã chính thức đầu hàng quân Mông Cổ  năm 1227 và hẹn xin nộp thành. Tây Hạ bị diệt sau khi tồn tại 190 năm,  từ 1038 đến 1227. Trước thời hạn vua Tây Hạ nộp thành vừa đúng một ngày  thì Thành Cát Tư Hãn mất. Quân Mông Cổ đã giết vua Tây Hạ và cả hoàng  tộc này.
Trước khi chết, Thành Cát Tư Hãn đã chia đế chế của  ông cho bốn người con trai. Truật Xích là lớn nhất, nhưng đã chết và  quan hệ huyết thống của ông ta cũng bị nghi ngờ, vì thế những vùng đất  xa xôi nhất của đế quốc như miền nam Ruthenia đã được chia cho các con của ông này là Bạt Đô thủ lĩnh của Thanh Trướng hãn quốc, và Oát Nhi Đáp, thủ lĩnh của Bạc Trướng hãn quốc. Sát Hợp Đà là con trai thứ hai, nhưng là người nóng nảy được chia vùng Trung Á và bắc Iran. Oa Khoát Đài (Ogedei), con trai thứ ba là Đại hãn và nhận được Trung Quốc. Đà Lôi (Tolui),  trẻ nhất, nhận Mông Cổ. Tháng 7 âm lịch năm 1227, sau khi nhận được tin  hoàng tử Truật Xích ở Khwarezm qua đời, Thành Cát Tư Hãn bệnh nặng.  Trên giường bệnh, Thành Cát Tư Hãn phác thảo kế hoạch cho Đà Lôi, sau kế  hoạch này được những người kế vị sử dụng để triệt hạ dứt điểm nhà Kim  và thông báo người kế vị là Oa Khoát Đài.
Trong chiến dịch cuối cùng của mình chống lại nhà Tây  Hạ, Thành Cát Tư Hãn đã chết vào ngày 18 tháng 8 năm 1227. Nguyên nhân  cái chết của ông vẫn chưa được sáng tỏ, nhiều người cho rằng do ông ngã  ngựa vì tuổi già và suy giảm thể lực hay sự ám sát từ phía kẻ thù. Biên niên sử Galicia-Volhynia cho rằng ông bị những người Đảng Hạng giết chết, tuy nhiên đến ngày nay vẫn chưa ai biết rõ.
Sau khi ông chết, thân xác ông được đưa về Mông Cổ và được cho là mang về nơi ông sinh ra ở aimag Khentii,  là nơi mà nhiều người cho rằng ông đã được hỏa thiêu ở một nơi nào đó  gần sông Onon. Đoàn hộ tống lễ tang đã giết hết mọi người và tiêu hủy  mọi thứ lạc vào đường của họ tới nơi thiêu xác ông để không ai có thể  khám phá ra nơi họ chôn cất người lãnh tụ đáng kính của mình. Trong đám  tang của ông (để giữ bí mật) người ta cho rằng đã có ít nhất 40 cung nữ  đã bị hỏa thiêu cùng với ông, vì thế ngay cả các bà mẹ của họ cũng không  thể xác định được nơi mà các cung nữ đã bị thiêu. Lăng Thành Cát Tư Hãn là nơi tưởng niệm ông, nhưng không phải là nơi chôn cất ông. Vào ngày 6  tháng 10 năm 2004, người ta đã cho là tìm thấy "cung điện Thành Cát Tư  Hãn", được cho là khu mộ của ông.
3-BẢN LẢNH CỦA THÀNH CÁT TƯ HẢN  :
Thành Cát Tư Hãn là một nhà lãnh đạo thực thụ có khả  năng. Ông đã tạo ra bộ luật bằng chữ viết của người Mông Cổ mà mọi người  trong đế chế phải tuân thủ. Vì sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo và sắc  tộc của các công dân và binh lính trong Đế chế Mông Cổ bao gồm cả Trung  Quốc, Ba Tư và châu Âu ngày nay, ông đã truyền lại sự trung thành chỉ  đối với ông (Đại Hãn) mà không cho một ai khác. Để giữ vững và bổ sung  cho các chi phí cho quân đội cũng như các hoạt động khác, ông đã cho  phép các thủ lĩnh duy trì quyền lực khi mà họ còn cung cấp được sức mạnh  quân sự, nộp cống phẩm và cung cấp nhân lực trong các cơ sở cố định.  Chiếm đóng được một khu vực đất đai rộng lớn, ông đã khuyến khích thương  nghiệp và trao đổi hàng hóa và người Mông Cổ nhận được hàng hóa và dịch  vụ từ những người khác. Các thương nhân, giáo sĩ, đặc sứ đã được đảm  bảo sự an toàn và hướng dẫn cần thiết dưới đế chế Mông Cổ, ví dụ một số  người trong số họ đã đến Trung Quốc như nhà du hành Giovanni da Pian del Carpini dưới thời Oa Khoát Đài hay nhà du hành người Ý Marco Polo tới Bắc Kinh  dưới thời Hốt Tất Liệt, là những người đã viết sách trong chuyến du hành  của họ với một độ chính xác cao. Dưới thời Thành Cát Tư Hãn, mọi "cá  nhân và tôn giáo là bình đẳng trước pháp luật Mông Cổ".
Vì sự mở rộng đế chế của ông, Thành Cát Tư Hãn đã có  ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa của nhiều quốc gia châu Á, chủ yếu là  Trung Quốc và Nga. Ông đã tiêu diệt tầng lớp quý tộc hiện thời trong các vùng lãnh thổ của mình, tạo ra tầng lớp trí thức thô sơ trong thời kỳ đó. Ông cũng tạo ra hệ thống bưu chính rộng lớn và mở rộng sự phổ biến của việc sử dụng hệ thống chữ cái thế giới, mặc dù trong nhiều năm người ta vẫn tin rằng ông là người  thất học vì sự xuất hiện gần đây của chữ viết cũng như tuổi tác của ông  tại thời điểm thi hành điều đó. Tuy nhiên, gần đây theo các phát kiến  của các nhà sử học Mông Cổ và Trung Quốc ta thấy ông là người có học thức cao. Các văn bản viết tay được cho là của ông cũng như nội dung của chúng cho thấy ông có thể đọc các bài thuyết pháp của Lão giáo. Thương mại và du lịch trong lãnh thổ Trung Quốc, Trung  Cận Đông và châu Âu được phát triển mạnh mẽ bởi sự ổn định chính trị  nhất mà Đế chế Mông Cổ đã đem lại khi thiết lập lại Con đường tơ lụa.  Ông giảm các hình phạt trong các khu vực của mình, miễn giảm thuế cho  các lang y và thầy đồ,  và thiết lập sự tự do tôn giáo. Các ngôn ngữ khác như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ  được phát triển và các loại hình tôn giáo đã nảy nở do có tự do tôn  giáo. Quân đội Mông Cổ về sau bao gồm rất nhiều người của các nền di sản  khác nhau. Người Mông Cổ mở đầu cho phần lớn châu Á biết đến bàn tính  và la bàn cũng như cho châu Âu biết đến thuốc súng và thuốc nổ được phát  minh bởi người Trung Quốc cũng như các phương tiện chiến tranh vây hãm  mà người Trung Quốc đã phát triển để đối phó với người châu Âu. Ông cũng  là người thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, là điều mà một số người cho là  thành tựu đáng kể nhất của ông. Người ta cũng cho rằng ông là người đầu  tiên ngăn chặn sự phân chia bắc và nam Trung Quốc được bắt đầu từ thời  kỳ nhà Tống. Liên quan đến việc thống nhất Mông Cổ (một trong những  thành tựu ấn tượng nhất của ông) là ông đã kiểm soát tốt để giành được  sự hậu thuẫn của người Mông Cổ.
Ông tổ chức quân đội Mông Cổ thành các nhóm theo cơ số 10 (10 lính là một arban (thập hộ), 100 là một zuun (bách hộ), 1.000 là một myangan (thiên hộ), 10.000 là một tumen (vạn hộ)) và mỗi một nhóm binh sĩ có một thủ lĩnh có trách nhiệm báo  cáo với cấp trên cho đến tận tumen. Cơ cấu mệnh lệnh này tạo ra một sự  mềm dẻo cao và cho phép quân đội Mông Cổ có khả năng tấn công ồ ạt,  chia thành các nhóm nhỏ hơn để bao vây và dẫn dắt kẻ thù vào trong mai  phục hay chia thành các nhóm nhỏ 10 người để áp chế các nhóm tàn quân đã  tan vỡ và đang trốn chạy. Quân đội Mông Cổ là rất mềm dẻo vì sự kiên định của binh sĩ. Mỗi người lính Mông Cổ có thể có từ 2 đến 4 ngựa cho phép  họ phi nước đại trong vài ngày mà không cần nghỉ ngơi hay bị mệt mỏi.  Binh sĩ Mông Cổ cũng có thể sống vài ngày chỉ cần uống máu ngựa và ăn  thịt bò Tây Tạng khô khi thời tiết khắc nghiệt.
Khi bổ sung binh lính mới cho quân đội, Thành Cát Tư  Hãn chia họ ra thành nhiều nhóm dưới quyền của các thủ lĩnh khác nhau để  tránh tình trạng có quan hệ về sắc tộc hay xã hội, vì thế ở đây không  có sự phân chia theo các liên minh sắc tộc. Trong mọi chiến dịch, binh  sĩ được phép đem theo gia đình của họ. Chỉ những chiến binh dũng cảm  nhất mới được thăng chức. Mỗi một thủ lĩnh của một nhóm nào đó phải chịu  trách nhiệm về sự sẵn sàng chiến đấu của binh lính dưới quyền tại bất  kỳ thời điểm nào và có thể bị thay thế nếu như phát hiện được sự tắc  trách.
Binh lính Mông Cổ là các khinh kỵ binh (kỵ binh nhẹ)  so với các kỵ sĩ châu Âu, điều này cho phép họ tiến hành các chiến thuật  và rút lui nhanh chóng. Đây là một thông lệ đối với các đội quân linh  hoạt. Người Mông Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn và các hậu duệ của ông là  sự hoàn hảo của loại hình quân khinh kỵ  bắn cung. Một trong những kỹ thuật mà người Mông Cổ sử dụng trong chiến  tranh là sự giả vờ rút lui giữa trận đánh, quân Mông Cổ có thể rút lui  bất thình lình, làm cho quân đối phương tin rằng người Mông Cổ đã thua  trận. Chỉ sau đó trong một khoảng cách nhất định thì họ mới hiểu là đã  bị quân Mông Cổ bao vây và cuối cùng là hàng trận mưa tên bắn về phía  họ. Người Mông Cổ không thích hợp với các cuộc cận chiến, họ thích đánh  nhau từ một khoảng cách nhất định bằng cung tên với khả năng bắn cung  khi đang cưỡi ngựa điêu luyện của mình.
Trong các cuộc chiến, thủ lĩnh quân đội Mông Cổ có thể  sử dụng cờ hay kèn hiệu để thực hiện chiến lược, chiến thuật của mình.  Đối với người Mông Cổ, chiến thắng có vẻ như là vấn đề quan trọng nhất  và họ không thể chấp nhận thua trận cũng như mất người bởi vì họ bị thua  sút về tiếp viện (ít nhất là hai lần thấp hơn trong phần lớn các trận  đánh nếu tính theo lượng binh sĩ) cũng như họ phải di chuyển xa lãnh thổ  của mình. Như đã đề cập trên đây, vũ khí chủ yếu của người Mông Cổ là  cung của người Hung và kiếm lưỡi cong, nhẹ và hiệu quả để mang vác và  đánh nhau hơn là kiếm dài và nặng của người châu Âu. Một quy tắc đơn  giản trong giao tranh đã được làm rõ trong thời đại của Thành Cát Tư Hãn  là nếu hai hay nhiều hơn binh sĩ tách khỏi nhóm của họ mà không có sự  chấp thuận của thủ lĩnh thì họ phải chết. Kiểu giao tranh của người Mông  Cổ có vẻ như là phương thức tự nhiên nhất của cuộc sống du cư của họ,  nó có nghĩa là trong các cuộc viễn du thì phải có hành lý gọn nhẹ nhất  cũng như tốc độ và sự linh hoạt lớn hơn. Do thế Thành Cát Tư Hãn đã bổ  sung thêm một thành phần quan trọng, đó là kỷ luật nghiêm minh đối với  quân đội của ông mà nó là tương tự như các đội quân khác của thảo nguyên  trong thời gian dựa vào kiểu chiến tranh bằng khinh kỵ binh với cung  tên.
Triết lý quân sự của Thành Cát Tư Hãn nói chung là  đánh bại kẻ thù với ít tổn thất và rủi ro nhất cho người Mông Cổ, dựa  trên lòng trung thành và tài năng trong việc lựa chọn các tướng lĩnh và  binh sĩ.
Thành Cát Tư Hãn đã thực hiện rất thành công các kiểu chiến tranh tâm lý,  đặc biệt trong các việc mở rộng sự đe dọa, khủng bố đối với các thành  phố, thị trấn khác. Nếu ông nhận thấy là ở đó có sự chống cự, ông có thể  đưa ra cơ hội để họ đầu hàng và cống nộp. Nếu lời đề nghị bị từ chối,  ông có thể tiêu diệt cả thành phố hay thị trấn đó nhưng cho một số người  chạy trốn để loan truyền tin về tổn thất của họ cho cư dân của các  thành phố khác. Một khi những tin đồn về sức mạnh của đội quân của ông  đã loang rộng thì rất khó cho các thủ lĩnh của các thành phố đó trong  việc thuyết phục người dân của họ chống lại Thành Cát Tư Hãn. Quan điểm  của Thành Cát Tư Hãn đối với các kẻ thù là: hoặc đầu hàng và chịu cống  nộp hoặc là chết. Khi họ đã đầu hàng, Thành Cát Tư Hãn thông thường giữ  cho thành phố đó được nguyên vẹn và đảm bảo cho họ sự bảo vệ để họ trở  thành nguồn nhân lực và quân nhu cho các chiến dịch trong tương lai. Nếu  họ chống lại, ông thực hiện quyền của người cai trị cả thế giới. Người  ta cho rằng ông đã giữ được nhiều sinh mạng nhờ chiến tranh tâm lý và sự  hăm dọa đối với kẻ thù.
Công nghệ là một mặt quan trọng trong chiến thuật của  ông. Những thiết bị vây hãm là một phần trong chiến thuật của ông, đặc  biệt trong việc tấn công các thành phố đã tăng cường phòng thủ. Ông sử  dụng các nhà kỹ thuật Trung Quốc rất am hiểu các thiết bị vây hãm trong  thời gian đó trong quân đội của mình. Các thiết bị vây hãm này được tháo  rời và vận chuyển bằng ngựa và được lắp ráp lại ở nơi mà chúng cần sử  dụng.
Trong bối cảnh của một cuộc chiến tranh điển hình và  các biến thái của nó, trước khi xâm chiếm, Thành Cát Tư Hãn và các tướng  lĩnh của ông thực hiện việc chuẩn bị tích cực ở Kurultai để quyết định  xem sẽ chỉ đạo cuộc chiến tranh sắp tới như thế nào cũng như các tướng  nào cần tham gia; có nghĩa là họ có thể tích lũy kiến thức hoàn hảo hơn  từ những kẻ thù của mình, sau đó sự khiêu chiến sẽ được tính toán, và  sau đó họ quyết định bao nhiêu đơn vị là cần thiết. Ở phía khác, các  tướng Mông Cổ là những chiến binh với mức độ độc lập cao trong các quyết  định khi họ tỏ rõ lòng trung thành với Thành Cát Tư Hãn trong một thời  gian dài, điều này làm giảm thiểu sự kiểm tra, giám sát của ông đối với  họ trong thời gian diễn ra chiến dịch. Vì bản chất nhẹ của quân đội Mông  Cổ, Thành Cát Tư Hãn đã xây dựng một mạng lưới tình báo phức tạp trong quân đội Mông Cổ cũng như trong các mạng lưới thương mại hay các nước chư hầu, trong đó  tình báo có thể nhanh chóng đến được mọi ngõ ngách của đế chế Mông Cổ.  Người ta cho rằng, để chuẩn bị cho chiến tranh, các tướng có thể cử 200  kỵ binh đi theo 4 hướng khác nhau để do thám các hoạt động của kẻ thù và  đôi khi binh sĩ đi tới 300 km trong 1 hay 2 ngày, điều này là thông  thường trong thời đại của đội quân Mông Cổ.
Mặc dù chiến lược của người Mông Cổ là có sự thay đổi  tùy theo phản ứng của kẻ thù, nhưng kỹ thuật của họ có thể vẫn chỉ là  một. Người Mông Cổ giao chiến theo hàng dọc, thông thường có ba cánh  quân, hai cánh bên hông có thể tách ra từ cánh quân trung tâm khi họ  tính toán xem nơi nào họ có thể thọc vào. Các cánh quân bên hông có quân  số tương đương có thể đi sâu vào lãnh thổ kẻ thù và bắt đầu chôn vùi kẻ  thù bằng các toán quân Mông Cổ được chia thành các cơ, đội 10, 100,  1.000, 10.000 binh sĩ với các thủ lĩnh của họ, nó tạo ra một lực lượng  chiến đấu rất tinh tế và có tổ chức cao, gần như không thể ngăn chặn nổi  bởi những đội quân nông dân của người châu Âu hay Trung Quốc. Khi họ  hiện diện ở một nơi nào đó và do thám các thành phố và cánh đồng xung  quanh, họ có thể bằng cách nào đó nhập lại với cánh quân trung tâm và  đưa ra đòn đánh quyết định với đội quân chính của kẻ thù. Tư tưởng và ưu  thế của việc sử dụng các lực lượng bên hông là lan truyền đe dọa, khủng  bố (người Mông Cổ rất giỏi việc này), thu thập tin tức tình báo từ các  kẻ thù của họ và loại bỏ các đơn vị nhỏ hơn của kẻ thù để cho họ không  thể hỗ trợ lẫn nhau. Nói cách khác, nó là một dạng của khái niệm phân  chia và chế ngự. Các cánh quân bên hông này gửi các thông điệp thông qua  tình báo cho các cánh quân khác về những gì xảy ra trên hướng của họ và  họ có cần sự hỗ trợ từ các cánh quân đó hoặc hỗ trợ các cánh quân đó  hay không. Quân đội Mông Cổ có các cuộc giao chiến với các đội quân nhỏ  lẻ trên các cánh đồng trước khi tiêu diệt lực lượng đối địch chính, điều  này làm tăng ưu thế của họ trong việc loại trừ khả năng thông tin từ  một thành phố cho các thành phố khác của kẻ thù (mà có thể có được sự hỗ  trợ từ đó). Người Mông Cổ giỏi chiến tranh vây hãm, giỏi làm lệch dòng  chảy của các dòng sông cũng như lương thực, thực phẩm cho các thành phố  và gửi những người tỵ nạn tới các thành phố khác để tạo căng thẳng về  kinh tế-xã hội cho các thành phố này (lương thực, thực phẩm, nơi ăn ở  v.v).
Khi trận đánh chính hay sự vây hãm đã kết thúc, người  ta cho rằng quân đội Mông Cổ truy đuổi thủ lĩnh của kẻ thù cho đến khi  ông ta hoàn toàn suy sụp để làm ông ta không thể đến điểm thu thập quân  đội của mình sau trận đánh. Phần lớn thời gian thủ lĩnh của kẻ thù phải  chạy trốn đã nhận ra rằng họ có lẽ đã thua cuộc, nhưng các lực lượng  Mông Cổ truy đuổi cho đến khi họ chắc chắn rằng những kẻ này đã chết.
4- NHẬN ĐỊNH CỦA THẾ GIỚI VỀ THÀNH CÁT TƯ HẢNThành Cát Tư Hãn là nhân vật bị phân cực nhiều nhất  trong cách đánh giá của người phương Đông và phương Tây. Ở phương Tây và  Trung Đông, hình ảnh của ông là không tích cực lắm vì ông đã giết quá  nhiều người cũng như là mối đe dọa đối với cuộc sống và tài sản của họ.  Tuy nhiên, ở phương Đông thì ông là một trong những lãnh tụ có ảnh hưởng  to lớn đối với lịch sử. Ngày nay, những người Mông Cổ tìm thấy ở ông  như là người sáng lập ra và thống nhất Mông Cổ, là điều mà họ không thể  có được trước khi có ông. Ngược lại, ở Trung Đông, người ta có cách đánh  giá hơi pha trộn về ông và các hậu duệ của ông vì quân đội của họ đã  xâm chiếm và tiêu hủy thành Baghdad nhưng cuối cùng thì một số trong  quân đội Mông Cổ đã chuyển sang theo đạo Hồi và có cuộc sống hòa trộn  với dân bản xứ. Một số trường phái và các nhà khoa học, phụ thuộc vào  gốc gác của họ, cho rằng những người Mông Cổ là những người xây dựng hay  những kẻ hủy diệt vĩ đại nhất.
Thành Cát Tư Hãn và những người Mông Cổ là một trong  những chủ đề trái ngược nhau theo các cách hiểu khác nhau tùy theo vị  trí mà ta xem xét, trong đó tiêu cực nhất là từ châu Âu và Trung Đông là  những nơi đã từng bị đe dọa và tiêu diệt (ví dụ: châu Âu, Ba Lan,  Hungary, một phần của Nga).
Nhìn nhận về Thành Cát Tư Hãn ở Cộng hòa Nhân dân  Trung Hoa ngày nay là mâu thuẫn vì các nhà sử học Trung Quốc vừa nhìn  thấy ở ông mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Trong khi người ta nhận thức  được những tổn thất nặng nề mà ông gây ra, thì hình ảnh của ông trong  một phương diện nào đó được nhìn nhận tốt hơn do ông đã đưa các sự kiện  gây ra sự chia rẽ bắc-nam Trung Hoa có từ thời nhà Tống đi vào dĩ vãng.  Ngoài ra, sự phỉ báng Thành Cát Tư Hãn là một sự xúc phạm ghê gớm đối  với các công dân Trung Quốc có nguồn gốc Mông Cổ, là những người mà  giống như bà con của họ ở Mông Cổ coi Thành Cát Tư Hãn như một người anh  hùng dân tộc và xu hướng trong lịch sử Trung Quốc hiện đại đã tránh nói  tới điều đó
Các hậu duệ của ông đã mở rộng quốc gia của ông rộng  hơn về phía nam Trung Quốc, Nga, Iraq, Triều Tiên và Tây Tạng. Người  Mông Cổ cuối cùng đã xâm chiếm Ba Lan và Hungary dưới triều đại của Hãn  vương Batu cũng như các mức độ khác nhau của sự thành công đối với  Syria, Nhật Bản và Việt Nam (vì các lý do như khí hậu nóng bức, nhất là ở  Trung Đông như Ả Rập Saudi). Việc mở rộng về phía châu Âu bị ngừng lại  do nhiều lý do như các thành viên cao cấp của người Mông Cổ phải quay về  Mông Cổ (ngày nay) để bầu đại hãn mới hay do sự kháng cự của người châu  Âu quá mạnh v.v. Người Mông Cổ đã có thể xâm chiếm toàn bộ châu Âu do  họ xâm chiếm Ba Lan và Hungary chỉ trong thời gian khoảng một vài tháng.  Đế chế Mông Cổ đạt tới cực đại của nó vào thời của cháu nội ông, đại  hãn Hốt Tất Liệt, nhưng sau đó đã bị chia sẻ thành nhiều hãn quốc nhỏ và  ít sức mạnh hơn.
Vào thời cực thịnh, Đế chế Mông Cổ là lớn nhất trong  lịch sử loài người, trải dài từ Đông Nam Á tới châu Âu trên một diện  tích 35 triệu km vuông (13,8 triệu dặm vuông). Theo một số nguồn, đế chế  này chiếm tới gần 50% dân số thế giới và bao gồm các dân tộc đông dân  và văn minh nhất thời kỳ đó như Trung Quốc và phần lớn các quốc gia của  thế giới Hồi giáo ở Iraq, Ba Tư và Tiểu Á.
Cũng không thể phủ nhận là những cuộc chiến tranh của  Thành Cát Tư Hãn được đặc trưng bởi sự phá hủy toàn bộ trong một mức độ  chưa hề có cũng như sự thay đổi lớn trong phân bố dân cư châu Á. Theo  như các số liệu của các nhà sử học Iran như Rashid-ad-Din Fadl Allah,  thì người Mông Cổ đã giết khoảng trên 70.000 dân ở Merv và trên một triệu dân ở Nishapur.  Trung Quốc cũng chịu sự suy giảm bi thảm về dân số. Trước khi người  Mông Cổ xâm lược Trung Quốc có khoảng 100 triệu dân; sau khi hoàn thành  việc xâm lấn năm 1279, điều tra dân số năm 1300 cho thấy chỉ còn khoảng  60 triệu dân. Điều này không có nghĩa là những người của Thành Cát Tư  Hãn phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với cái chết của 40 triệu người  nhưng nó cho thấy mức độ của sự tàn bạo trong các cuộc giao tranh.
Trong thời gian gần đây, Thành Cát Tư Hãn đã trở thành  biểu tượng của những cố gắng của người Mông Cổ để thế giới thấy được  hình ảnh của họ sau những năm dài ngủ quên. Hình ảnh Thành Cát Tư Hãn  xuất hiện trên những đồng tiền Mông Cổ và nhãn mác của các loại rượu mạnh. Trong thế giới phương Tây ông thường được gắn với sự khát máu và man rợ.  Các hãn Mông Cổ sau này cổ vũ dân chúng tưởng niệm tới ông như một vị  thánh thần tôn giáo trong toàn đế chế. Không có Thành Cát Tư Hãn có lẽ  đã không có Mông Cổ, bởi vì đế chế Mông Cổ đã co lại từ những cái mà  Thành Cát Tư Hãn đã dựng lên từ năm 1206. Sự miêu tả có ý nghĩa về Thành  Cát Tư Hãn và những người Mông Cổ (dẫu cho không phải thực tế lắm) được  viết trong cuốn sách "Những bí mật của lịch sử Mông Cổ".
Cuộc thẩm tra di truyền gần đây tìm thấy các đoạn  nhiễm sắc thể Y với những đặc trưng không bình thường trong 8 % đàn ông  trong khu vực thuộc đế chế Mông Cổ và 0,5% đàn ông trên thế giới. Tuổi  của các đoạn này, tương ứng với tỷ lệ của sự biến đổi, đã đưa nguồn gốc  của chúng về thời đại của Thành Cát Tư Hãn, và nó đặc biệt là chung  trong những người Hazara, là những người tự nhận là hậu duệ của ông.
Ông được nhớ đến vì sự hủy diệt toàn bộ, sức mạnh ý  chí mãnh liệt, khả năng thuyết phục và đặc trưng Mông Cổ của mình đối  với mọi người.
 5-THÀNH CÁT TƯ HÃN TRONG TRUYỄN KIẾM HIỆP KIM DUNGThành Cát Tư Hãn được tiểu thuyết hoá trở thành một nhân vật trong truyện kiếm hiệp Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung. Theo truyện này, ông rất yêu quý nhân vật chính Quách  Tĩnh, từng hứa gả con gái Hoa Tranh cho chàng, phong cho chàng tước Kim  Đao phò mã. Thành Cát Tư Hãn cũng là người bức tử Lý Bình, mẹ của Quách Tĩnh. Trong truyện, Thành Cát Tư Hãn mất sau khi nói chuyện với Quách Tĩnh trên thảo nguyên
6-BÌNH LUẬN ENTRY :
Thành Cát Tư Hản đúng là con Hổ của vùng đại  mạc,cả đời ông là những cuộc Nam chinh Bắc chiến không ngừng , ông mở  rộng Đế Chế Mông Cổ từ những khôn ngoan chính trị và tài thao lược cầm  binh ra trận , ta thử phân tích lý do tại sao Thành Cát Tư Hản lại  làm được nên được những  kỳ tích vỉ đại đó :
 1- Thứ nhất là do địa lý, tinh thần chủng tộc hun  đúc, người Mông Cổ là những bộ tộc sinh sống ở vùng hoang mạc chỉ có cát  và nắng , thời tiết khắc nghiệt quanh năm, ho không có đất đai nên sống  một đời sống cực khổ du canh du cư, Nhà của họ là nhửng túp lều trại  dưng lên tạm bợ ở vùng đất mà họ đang khai thác, sau đó , khi mà tài  nguyên nơi nầy đã cạn kiệt họ lại nhổ trại đến nơi khác tiếp tục cuộc  sống du mục.Chính vì vậy khát vọng có một vùng đất định cư địa đàng với  sông nước hiền hoà, bình nguyên mầu mở đã làm dân tộc họ có ý chí  phấn đấu thực hiện cho được có một vùng lãnh thổ như mọi dân tộc khác dù  phải hy sinh với bất cứ giá nào .Khát vọng đó như một lời thề quyết tử,  họ sẵn sáng đánh đổi bằng xương máu của chính dân tộc họ và kẻ thù .  Khi ra trận, người lính Mông Cổ quên họ là một con người mà là một mãnh  thú tranh giành cuộc sống,vì họ chỉ có hai con đường được hay chết , họ  không có gì để mất nên xem tánh mạng nhẹ như cỏ cây .Chính vì những khát  vọng đó mà họ có sức chiến đấu phi thường kẻ thù phải khiếp sợ, và  ho đã bách chiến bách thắng mở rông bờ cỏi hắng triệu km2
2-Thứ hai là người Mông Cổ đã quen trận mạc từ những  cuộc nội chiến giữa các bộ tộc với nhau một cách khốc liệt để tồn  tại .Những lãnh tụ bộ tộc đã đấu trí , đấu sức với nhau , tìm cách tiêu  diệt nhau bằng những chiến thuật, chiến lược hết sức cơ động trên hoang  mạc. Những đứa trẻ Mông Cổ mới sinh ra vài tháng đã cho ngồi trên lưng  ngựa phi qua những vùng sa mạc nóng bỏng để tập sức chịu  đựng, lớn lên  một chút thì ăn, ngũ, tập đánh gươm, bắn cung  đều ngồi trên lưng ngựa  phi nước đại qua hoang mạc. Người Mông Cổ họ có thể ăn, ngũ trên lưng  ngưa như trong lều trại của mình. Cơ thể của họ đã quen với thời tiết  khắc nghiệt vùng sa mạc .Chính vì vậy nên khi ra trận , họ là những  chiến binh vô cùng dũng mãnh sức khoẻ phi thường.
3- Thứ ba là Thành Cát  Tư Hản là người có máu lạnh,  từ nhỏ ,ông đã được mẹ giãng cách tự lực để sinh tồn nếu lạc một mình  trên sa mạc, sức mạnh của Cộng Đồng khi liên kết với nhau Những bài học  nầy ông đã thực hiện sau nầy khi cầm quân và khi trốn thoát khỏi những  nơi kẻ thù đã giam giữ ông bằng cách  băng qua hoang mạc . Chất máu lạnh  trong người ông khiến ông đã giết người em cùng cha khác mẹ của mình  chỉ vì một con mồi săn được. Ông không có lòng thương hại với ai nhất là  kẻ đich với phương châm  "nhân đạo với kẻ thù là tàn nhẩn với chính  mình ". Vì tánh tình như thế nên kẻ thù , và cả binh sĩ của ông ai cũng  khiếp sợ, một lệnh ông ban ra là phải nhảy vào dấu sôi lữa bỏng chũng  chẳng dám khước từ, vì hèn nhát khước từ là đồng nghĩa với cái chết.
4-Tứ tư là Thành Cát Tư Hản là người biết người biết  ta, khi chiếm được lãnh thổ nào ông không tiêu diệt dân tõc đó mà khôn  khéo tìm cách chiêu dụ họ thần phục mình. Chính vi vậy trên bước đường  chinh chiến, quân của ông càng ngày bổ sung càng đông dù hy sinh rất  nhiều, nhất là sau hai cuộc chiến với hai nước hùng mạnh thời đó là Kim  và Tây Hạ ( sau cùng ông cũng diệt được hai nước nầy  mở vùng lảnh thổ  tới Vạn Lý Trường Thành, Nam Kinh tức Bắc Kinh ngày nay ).Ông cũng  rất được lòng quân sĩ khi chiếm được chiến lợi phẩm nào  ông cũng chia   đều cho binh sĩ , và khi đánh trận ông luôn dùng chiến thuật  "tiên lể  hậu binh ".Khi ông đã động binh thì rất tàn nhẩn với kẻ thù  Ông đã từng  hành hình một Thống Đốc nước địch vì dám giết đoàn sứ giả của ông bằng  cách  nấu chì cho nóng chảy rồi đổ vào mắt, vào miệng người nầy cho  chết. Để giữ kỹ cương quân sỉ và nhân dân ông đã soạn ra bộ luật Yassa  rất nghịêm khắc khiến mọi người đều phải thi hành một cách tuyệt đối Ông  rất có tài tổ chức và lảnh đạo.đất nước cũng như quân đội .   .       
Tóm lại ,sự thành công trong việc lập Đế Chế Mông Cổ  của Thành Cát Tư Hản có đủ những  lý do thiên thời, địa lợi, nhân hoà.  Điều quan trọng nhất là lý tưỡng hình thành một quốc gia độc lâp, một  mãnh đất mầu mở định canh định cư cho dân tộc luôn luôn thôi thúc ông  hành động như một sự trả thù số mệnh, tàn nhẫn với tất cả mọi người kể  cả với thân tộc .Sau đó lòng tham lam nổi lên như một ngọn lửa  âm ỉ lâu  ngày gặp cơn bảo bùng phát, ông muốn đất nước người Mông Cổ phải bao  trùm khắp Châu Lục như một người đói khát lâu ngày cần ăn cho thật no để  trả thù cho những ngày đói khát trước đây.Đó là lý do bước chân viễn  chinh, tiếng vó ngưa đoàn quân Mông Cổ của ông đã dẩm nát trên các  lục địa khiến hằng chục triệu người chết cho ước vọng của  một dân  tộc đang khao khát tìm vùng đất hứa .   
Tái liệu tham khảo : Lược trích phần tiểu sử,cuộc đời Thành Cát Tư Hản từ cuốnTừ Bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia 
.   HUY THANH  .                            










 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét