Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

THAM LUẬN : TẢN MẠN DƯ ÂM VỀ NGƯỜI VIẾT NHẠC LÃNG DU TRỊNH CÔNG SƠN

THAM LUẬN :


TẢN MẠN DƯ ÂM VỀ NGƯỜI VIẾT NHẠC LÃNG DU TRỊNH CÔNG SƠN

HUY THANH

Trong một Entry trước, tôi đã viết về những Chủ đề sáng tác nhạc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn Hôm nay ,trong Entry nầy khác hơn thường lệ , tôi không viết một mình, mà làm một người trích dẫn, chọn lọc , thuyết minh bài viết của những người khác, xem như là dư âm chung quanh cuộc đời của người nhạc sĩ tài hoa nầy

Những bài viết về cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì rất nhiều, có thể trên hằng chục ngàn trang giấy, nhưng ở đây tôi chỉ xin trích dẫn một số bài tiêu biểu mà theo tôi nói lên được những khía cạnh lớn bản thân và chung quanh cuộc đời của người nhạc sỉ tài hoa nầy, từ lúc " hoá thân từ hạt buị " và đến khi " trở về với cát bụi " :

1-VỀ CÁI GỌI LÀ DÓNG NHẠC " PHẢN CHIẾN " CỦA NHẠC SĨ TRỊNH CÔNG SƠN :

Thời gian trước năm 1975 ,nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết ,lưu hành rất nhiều bài nhạc nói về đề tài chiến tranh và thân phận con người trong chiến cuộc gây ít nhiều xôn xao cho dư luận Dòng nhạc nấy của Trịnh lúc đó tại miền Nam dư luận chia làm hai khuynh hướng : khuynh hướng "{đả kích" và khuynh hướng "ủng hộ " .

Khuynh hướng "đả kích " phần đông đều là những người trong chánh quyền, quân đội cuả chế độ Saigon cũ , họ đang cầm súng chiến đấu ngoài mặt trân ,họ coi dòng nhạc nầy của Trịnh là những liều thuốc mê ,ru ngủ, làm suy sụp ý chí chiến đấu của quân đội ,phản bội xương máu mà họ đang hy sinh để giữ miền Nam .Họ gọi loại nhạc nầy của Trịnh là " Nhạc Phản Chiến " .

Khuynh hướng "ủng hộ " phần đông là giới trí trẻ như thanh niên ,học sinh ,sinh vên ,một số giáo sư Đại Học có tinh thần cấp tiến, họ chán nản chiến tranh, họ có những khát vọng hoà bình , hoà hơp dân tộc nên dòng nhạc " Phản Chiến " của Sơn như một liều thuốc giải toả những ẩn ức cuả nổi lòng họ, kêu gọi một sự đồng cảm rộng lớn trong cộng đồng dân tộc .

Sỡ dĩ khuynh hướng "đả kích "gọi loại nhạc với đề tài chiến tranh nầy của Trịnh công Sơn là "Phản Chiến " vì họ căn cứ và so sánh các bài hát của Trịnh với các sáng tác của một nhạc sĩ người Mỹ tên là Bob Dylan chuyên môn viết những bài nhạc kêu gọi từ bỏ chiến tranh ở khắp thế giới của lực lượng Hoa Kỳ đang đồn trú mà phe chủ chiến ở Mỹ gọi là " Phản Chiến " . Họ so sánh , gọi Trịnh Công Sơn là một Bob Dylan của Việt Nam . Tuy nhiên , sự so sánh nầy có đúng hay không, ? ta hãy theo dõi bài viết của giáo sư John C. Schefer phân tích về sự giống nhau và khác nhau giữa Trinh Công Sơn và Bob Dylan :

"Trịnh Công Sơn không phải là Bob Dylan , Trịnh Công Sơn và Bob Dylan như "trăng và nguyệt" . Đó là cái tựa sách thật éo le, vừa ỡm ờ vừa nghiêm chỉnh "...như trăng và nguyệt", tác gĩa Jonh C .Schefer lấy tựa cuốn sách của ông từ những lời bài hát " Nguyệt ca " của Trịnh (từ khi trăng là nguyệt/ từ trăng thôi là nguyệt...), mà điểm nhấn chính là dấu hỏi đầy ý tứ treo như một cái móc câu. Theo ý ông " trăng và nguyệt " mặc dù cả hai đều cho ánh sáng tuy gần nhau mà cho ánh sáng khác nhau . . Từ tốn, khúc chiết, bằng vào chứng cứ và lập luận xác đáng, tác giả John C. Schafer ( một giáo sư người Mỹ Ðại học Humboldt, California) rất gắn bó với Việt Nam và am tường cả hai nền văn hóa đã diễn giải một cách rành mạch ,những nghiên cứu thú vị cả về sự tương đồng lẫn dị biệt giữa Bob Dylan với Trịnh Công Sơn ,hai thiên tài âm nhạc cùng thời.giống đấy mà lại khác đấy. Thậm chí rất khác, khác hẳn. Ðó là điều bất ngờ đối với nhiều người, nhất là với những ai cả tin vào một ví von ngộ nhận "Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam" vốn xuất hiện từ cuối thập niên 1960. Theo ông ,"Trịnh Công Sơn hình như lúc nào cũng mở rộng tâm của mình và mở rộng tâm của người khác "Một số điểm tương đồng giữa Trịnh Công Sơn và Bob Dylan được tác giả cuốn sách liệt kê:là cả hai đều vừa sáng tác vừa biểu diễn; đều vang danh phản chiến một thời; đều có những bài tình ca rất hay; soạn nhạc , đều được xem như hai nhà thơ; đều có mối liên hệ tình cảm đặc biệt với các nữ ca sĩ mà những người ấy giúp họ thành công (Bob Dylan với Joan Baez, Trịnh Công Sơn với Khánh Ly); đều nói lên được ước vọng và niềm đau của thế hệ trẻ thời mình; đều thụ hưởng một sự nghiệp lâu dài, giữ vững được danh tiếng; đều chịu ảnh hưởng và tìm nguồn cảm hứng trong truyền thống tôn giáo của mỗi người... "Nhưng những điểm tương đồng này rất hời hợt và đơn giản, khi nghiên cứu kỹ có thể nói chúng che lấp những dị biệt rất quan trọng". Và tác giả cuốn sách đi sâu phân tích từng dị biệt cụ thể.

Trước hết là hai cách phản chiến. "Chiến tranh mà Trịnh Công Sơn chống là chiến tranh đang xảy ra trên đất nước ông. Các bài phản chiến của ông có thời gian tính rõ ràng, xuất phát từ một chủng tộc rõ ràng". "Bob Dylan, trái lại, viết các bài phản chiến từ một thời gian và không gian khác. Ông chỉ viết một bài trực tiếp chống chiến tranh chung chung. "Dylan viết các bài phản chiến là diễn tả nỗi lo sợ cuộc chiến tranh lạnh sẽ trở thành đại chiến thế giới thứ ba". "Năm 1965, khi Trịnh Công Sơn đang viết những bài phản chiến nổi tiếng thì Dylan đã chuyển sang viết những bài có chủ đề cá nhân". Và quan trọng hơn: "Trịnh Công Sơn luôn khuyên răn nên tránh hận thù, trong khi Dylan thì đầy rẫy hận thù trong các bài phản chiến và một số bài khác của mình...".

"Ðối chiếu hàng loạt tình khúc cùng hàng loạt mối tình của hai nhà nghệ sĩ, tác giả cuốn sách so sánh: "Trịnh Công Sơn có thể nói là người bị tình phụ trong khi Dylan là kẻ phụ tình, nhưng giọng điệu Trịnh Công Sơn có vẻ buồn và hối tiếc trong khi Dylan lại giận dữ, hung hăng và thách thức". Một người suốt đời đơn chiếc mà thương khóc cho tình yêu tan vỡ bằng những lời nhân ái thiết tha. Một người vừa nhiều vợ, vừa đông con vừa lắm mối tình mà trong những bài "phản tình ca" hát về người tình cũ thường với giọng trách móc, chua cay, hằn học, khinh bạc, thậm chí "khinh bạc một cách tàn nhẫn" Dần dần thêm những dị biệt khác nữa hiện lên qua nhiều tư liệu phơi bày trên trang sách.

Những dị biệt về tính cách và nhân cách giữa hai nghệ sĩ lớn này được tác giả cuốn sách quan tâm đặc biệt, dành nhiều trang sách hơn cho việc truy tìm ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa và tư tưởng tôn giáo đã tác động tới họ.

Bob Dylan là tín đồ Kitô giáo, một "nhà tiên tri về ngày tận thế". Ông đã xuất bản nhiều album nhạc tôn giáo "Trong giai đoạn thứ tư, Dylan đã truyền đạo trong các bài hát của ông, một điều mà Trịnh Công Sơn không làm".

"Các bài hát của Trịnh Công Sơn mang ý niệm Phật giáo nhưng không phải là những bài ca tôn giáo". Tác giả cuốn sách dẫn lời Trịnh Công Sơn nhận mình là một phật tữ ,nhưng không bị đè nặng bởi những kinh kệ đạo Phật trong sáng tác "Ông hình như lúc nào cũng mở rộng tâm của mình và mở rộng tâm của người khác".

Thật là sòng phẳng, tác giả cuốn sách tuyên bố thẳng thừng: "Một lý do quan trọng để khẳng định Trịnh Công Sơn không phải là Bob Dylan của Việt Nam là vì, dựa trên các bằng chứng mà tôi đã thu lượm được, Trịnh Công Sơn đối xử với mọi người tốt hơn Bob Dylan". Ra là thế, một người Mỹ nói đấy nhé, các giá trị nêu tách bạch rạch ròi. Tự các trang sách như cùng cất tiếng, rằng tác giả của nó cảm phục tài năng của cả hai thần tượng nhưng tình yêu thì nghiêng về phía nhân cách.

Cũng thật là sòng phẳng, học giả Cao Huy Thuần đã viết trong Lời giới thiệu: "Như giữa Thượng đế và Cesar, hãy trả lại cho Bob Dylan cái gì của Dylan và cho Trịnh Công Sơn cái gì của nhạc Trịnh. Nhưng, dù sao đi nữa, hai ông vẫn đứng chung tên với nhau trong bia đá của lịch sử âm nhạc những năm sáu mươi, mỗi người một vẻ. Cho nên xin hai ông vui lòng đứng chung tên trên quyển sách này".
Nguyễn Duy ( phân tích từ bản dịch " Như Trăng và Nguyệt " của Cao thị Như Quỳnh )  


2- TRỊNH CÔNG SƠN , NỔI LÒNG CỦA TÊN TUYỆT VỌNG :,
(Thay lời tựa tập nhạc "Tự tình khúc" viết năm 1972 )

Tiếng nói thầm kín của một người nhiều khi suốt cuộc đời không thể nào bày tỏ. Có khi bày tỏ được thì cũng là những tiếng nói dở dang. Có người giấu bặt. Tôi chưa hề quên cái hiệu lệnh muôn đời: "Cái ta đáng ghét". Tuy nhiên trong cuộc sống thường nhật nơi đây, ngoài những ngày hét la to đầy nộ khí, vẫn có những giây phút lui về muốn thở than. Phải chăng thở than cũng là niềm bí ẩn của con người.

Mỗi đời sống ẩn giấu một định mệnh. Có những định mệnh đời đời là cây kiếm sắc. Một đôi lần trong giấc mơ tôi, bừng lên những ánh thép đó. Nhưng tôi biết rõ rằng tôi chỉ là một loài chim nhỏ hót chơi trên đầu những ngọn lau. Không ai muốn mình là kẻ tuyệt vọng. Nhưng tôi tự nguyện làm tên tuyệt vọng. Bởi nhiều khi sớm mai tôi thức dậy không thấy được hoa quả khai sinh trong trái tim người.

Tôi lại biết thêm rằng, dù là người chiến thắng hay chiến bại, suốt cuộc đời cũng không thể vui chơi. Hạnh phúc đã ngủ yên trong những ngăn kéo của quên lãng.

Nơi đây, chúng ta đang sống thêm một thứ định mệnh mới. Định mệnh Việt Nam. Thứ định mệnh đã khép lại những nụ cười. Đã dạy dỗ ta những điều mang trá. Thứ định mệnh đêm rao bán ở công viên, trong những ngõ tối, dưới những khung cửa thấp và chật hẹp. Nhưng may mắng thay, vẫn còn làm nở ra, đây đó, những đời người đẹp đẽ.

Tôi không bao giờ nhầm lẫn về sự khổ đau và hạnh phúc. Nhưng tôi thường rơi vào cơn hôn mê trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hoảng hốt thấy mình lơ lửng giữa sự sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi mỗi đêm. Khi quanh tôi, mọi người đã yên ngủ. Và tôi đau đớn nhận ra rằng, có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh.

Mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm. Ðời sống thật sự không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, vì sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết hơn, nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời. Như đứa con ngoan không tuyệt tình nổi với rẫy sắn nương khoai, nơi có bà mẹ suốt đời mắt không sáng nổi một ngày trẩy hội.

Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau. Từ buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều dối trá. Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọn g và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa. Tôi không muốn khuyến khích sự khổ hạnh, nhưng mỗi chúng ta hãy thử sống cùng một lúc vừa kẻ chiến thắng vừa kẻ chiến bại. Nỗi vinh nhục đã mang ta ra khỏi đời sống để đưa đến những đấu trường.

Tôi đang bắt đầu những ngày học tập mới. Tôi là đứa bé. Tôi là người bạn. Ðôi khi tôi là người tình. Chúng tôi cùng học vẽ lại chân dung của nhân loạị Vẽ lại con tim khối óc. Trên những trang giấy trắng tinh khôi chúng tôi không bao giờ còn thấy bóng dáng của những đường kiếm mưu đồ, những vết dao khắc nghiệt. Chúng tôi vẽ những đất đai, trên đó đời sống không còn bạo lực.

Như thế, với cuộc đời, tôi đã ôm một nỗi cuồng si bất tận. Mỗi đêm, tôi nhìn trời đất để học về lòng bao dung. Nhìn đường đi của kiến để biết về sự nhẫn nhục. Sông vẫn chảy đời sông. Suối vẫn trôi đời suối. Ðời người cũng để sống và hãy thả trôi đi những tị hiềm.

Chúng ta đã đấu tranh. Ðang đấu tranh. Và có thể còn đấu tranh lâu dài. Nhưng tranh đấu để giành lại quyền sống, để làm người, chứ không để trở thành anh hùng hay làm người vĩ đại. Cõi Người từ khước tước hiệu đó.

Chúng ta đã đấu tranh như một người trẻ tuổi và đã sống mệt mỏi như một kẻ già nua. Tôi đang muốn quên đi những trang triết lý, những luận điệu phỉnh phờ. Ở đó có hai con đường. Một con đường dẫn ta về ca tụng sự vinh quang của đời sống. Con đường còn lại dẫn về sự băng hoại.

Nhân loại, mỗi ngày, đang cố bày biện những tiệm tạp hóa mới. Ðóng thêm nhiều kệ hàng. Người ta bán đủ loại: đói kém, chết chóc, thù hận, nô lệ, vong thân...
Những đấng tối cao, có lẽ đã ngủ quên cùng với chân lý.
Tôi đã mỏi dần với lòng tin. Chỉ còn lại niềm tin sau cùng. Tin vào niềm tuyệt vọng. Có nghĩa là tin vào chính mình. Tin vào cuộc đời vốn không thể khác.

Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng.
Trịnh Công Sơn

3- NHỮNG BÀI THƠ VỀ TRỊNH CÔNG SƠN :

3.1- NGẪM NGHĨ VỀ SƠN

Có những ngày dài, những đêm dài
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Sơn ngồi vắt gan mình
Cho mật đắng nhỏ xuống
Từng giọt nhạc giọt thơ
Giọt thân giọt phận da vàng

Gan khô,
Sơn lại tưới lại tẩm rượu vào cho ướt cho mềm
Rồi lại vắt lại vắt
Cho mật cay nhỏ xuống
Từng giọt nhạc giọt thơ
Người con gái ViệtNam...

Có những tháng dài năm dài
Chiến tranh hận thù tan tác tin yêu.
Chúa đã bỏ loài người
Phật đã bỏ loài người
Sơn ngồi vắt tim mình
Cho máu mặn nhỏ xuống
Từng giọt nhạc giọt thơ
Giọt kinh Việt Nam
Nối vòng tay lớn

Tim khô,
Sơn lại tưới lại tẩm rượu vào cho ướt cho mềm
Rồi lại vắt, lại vắt
Cho máu mặn cay nhỏ xuống
Từng giọt nhạc giọt thơ
Huế - Saigon - HàNội
Có những đời dài kiếp dài
Chới với cô đơn
Bên đời hiu quạnh
Sơn ngồi vắt tình buồn tình nhớ
Cho tinh anh lạ thường nhỏ xuống
Từng giọt nhạc giọt thơ
Nắng thủy tinh, mưa hồng, biển nhớ

Tình cạn,
Sơn lại tưới lại tẩm rượu vào cho ướt cho mềm
Rồi lại vắt, lại vắt
Cho tinh anh vô ngại nhỏ xuống
Từng giọt nhạc giọt thơ
Những mùa thu đi
Như cánh vạc bay
Em còn nhớ hay em đã quên
Có những thanh xuân
Bất chợt già
Bất chợt sẽ chia xa
Sơn ngồi vắt óc mình
Cho minh triết nhỏ xuống
Từng hạt nhạc hạt thơ
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Óc não khô rồi!
Sơn lại tưới lại tẩm rượu vào cho ướt cho mềm
Rồi lại vắt, lại vắt
Cho hân triết hoan triết nhỏ xuống
Từng niềm nhạc niềm thơ
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Và như thế và như thế là Sơn
Và như thế và như thế
Là Sơn.
Trương Thìn, (Hà Nội, 19/04/2001)

Ghi chú của Huy Thanh : Bác sĩ Trương Thìn trước đây là Viện Trưỡng Bệnh Viện Y Học Dân Tộc TP HCM , ông là một nhà Thơ, một nhạc sỉ trong phong trào sinh viên thuộc Đoàn Văn Nghệ Học Sinh Viên SàiGon trước năm 1975, tôi cũng có vài lần nói chuyện cùng ông tại Trường Đại Học Y Khoa vào năm 1970 . Theo báo chí thì nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mất vì bệnh gan hậu quả của uống quá nhiều rượu .


3- THƠ TRỊNH CÔNG SƠN VÀ BÙI GÍÁNG :
A- BÙI GIÁNG VIẾT VỀ TRỊNH CÔNG SƠN

Anh Sơn vô tận bấy chầy
Tôi từ lẽo đẽo tháng ngày trải qua
Niềm thống khổ đứt ruột rà
Còn chăng? ấy chỉ một là là chi?
Bùi Giáng


B-TRỊNH CÔNG SƠN VIẾT VỀ BÙI GIÁNG

Mộ Bùi Giáng
Điếu Bùi Giáng

Bùi Giáng Bàng Dúi Búi Giàng
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Hoá ra thi thể là ngàn hư vô
Nhớ thương vô cùng là từ
Là từ vô hạn ứ ừ viển vông.
Trịnh Công Sơn

4- THAY LỜI  KẾT  :  HUYỀN THOẠI VỀ MỘT NGƯỜI
Nếu ở vào một thời đại khác, có lẽ anh đã chẳng viết những ca khúc này.
Những ca khúc với nhịp nói kể récitativo rã rời, bải hoại, thảm thiết cùng độ đàn trên diệu blues đau nghẹn, đè nén công phẩn, điệu của một màu da nô lệ.
Những ca khúc như những bản chúc thư của con người trong tôi.
Mỗi ca khúc như một lời trối trăn tuyệt mệnh vừa đủ cho đời người, một bài thôi tưởng không cần nói thêm cũng xong.

Những ca khúc dựng lên viễn tượng ghê rợn của thế giới sau ngày cuối cùng, một thế giới lạnh lẽo, cô tịch, im lìm trên đó những dấu tích nhân loại đã bị bôi xóa, chỉ còn mỗi con người độc nhất sống sót lủi thủi đi tìm trong vô vọng cái ý niệm về mình.
Những ca khúc như những bản spírituals để đám đông bị giam hãm chờ chết đồng ca trong cơn đại nạn.
Những ca khúc như những báo hiệu cuối cùng của đêm tối vĩnh cửu trên trần gian.

Những ca khúc như những lời kể tội chung thẩm để chẳng buộc tội ai hết, nếu chẳng phải để buộc tội chính mình.
Những ca khúc như những tra vấn quyết liệt về đời nguời nhìn thấy qua một chuyến phiêu lưu của hữu hạn trong ngàn trùng vô hạn.
Ðã tan biến tụ bao giờ cái áo tưởng chói lòa này? nghệ thuật, khi đi đến tận cùng hành trình của nó, sẽ giải phóng con người khỏi cái thân phận nghiệt ngã.

Bây giờ, hơn bao giờ hết, chúng ta lại nghiệm thấy một cách chua xót rằng nghệ thuật đã dìm con người sâu hơn trong nỗi khốn khổ chung thân cửa nó, đã trói con người chặt hơn vào những thực tại khiếp đảm của nó.
Ở đây, vì tình thế đau đớn đặc biệt của quê hương, chúng ta phải gánh chịu gấp đôi thân phận nhân loại.

Do đó, có vài người tâm hồn giản dị đã vội kết luận rằng những ca khúc này của anh là những tác phẩm phản chiến để buộc tội anh về những tác dụng nguy hại của chúng đời với đám đông trong giai đoạn nghiêm trọng này của đất nước.
Chẳng lẽ chúng ta lại lên tiếng trách móc sao những người lại nỡ mang đặt nghệ thuật vào trong một cuộc đầu tư ngắn hạn và chắc chắn thua lỗ.
Nghệ thuật khi đã hình thành, là một nhận thức bao quát về đời sống, là cánh hồng bay bổng tuyệt vời, chớ đâu phải là con gà què ăn quẩn cối xay.

Phải vậy không anh ?
Que nous reste-t-il de sacré ?

Ðối với câu hỏi đã xưa này của Vigny, chúng ta cũng chẳng cần phải trả lời dài dòng thêm nữa.
Chẳng lẽ lại trả lời rằng anh chỉ còn có cây đàn cùng những lời ca thảm thiết bám đau trí não hay sao?

Những ước vọng hiệp sĩ của chúng ta trong thời tuổi nhỏ đã được chôn sâu nơi bãi sầu cùng với tuổi nhỏ tự hủy hoại sớm hơn hạn kỳ.
Bài học đắt giá nhất chúng ta đã thu thập được dưới sân của thế kỷ này là cái chết của con người khai báo bơi Malraux.
Thành thử, trong những ca khúc này, thêm một lần nữa, anh khai dạng huyền thoại về con người, thảm kịch của kẻ xa lạ nơi trần thế lưu đày, những tư tưởng phổ biến trong thời đại.

Lại có vài người cũng vội nhận định rằng nghệ thuật của anh thắm đượm màu sắc tôn giáo, thiêng liêng.
Thật ra huyền thoại là gì nếu nó chẳng phải là một câu truyện ngụ ngôn nhằm giải thích sự khởi đầu của thế giới, là một câu truyện kể về sự sáng tạo sơ khai.
Nói cách khác, huyền thoại cũng là giấc mộng đi tìm ý nghĩa chính đáng cho đời sống.
Dùng tới huyền thoại tức ước muốn làm lại thế giới.

Từ đó suy đi, tôi tưởng tượng sẽ được nghe dưới tên anh, một ca khúc của hy vọng xanh rờn nhu lá non mở phơi trong một buổi sáng tinh sương tôi thức dậy còn nhìn thấy mặt trời, còn nhìn thấy đồng loại, nhất là còn nhìn thấy con người trong tôi.

Xin mượn câu đầu của truyện tình Tristan để làm câu chót của bài này:
Seigneurs, vous plaít-il d'entendre un beau conte.
Tô Thùy Yên


HUY THANH

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét